Thị trường sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2015

 
Thứ Sáu, 25/11/2016
Báo giá
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Quảng cáo
    11356
Thị trường sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2015
Ngày đăng bài - 10/27/2016 12:00:00 AM
Thị trường sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2015

Phương thức sản xuất chăn nuôi chuyển đổi nhanh theo hướng trang trại, hộ lớn, chăn nuôi công nghiệp.

Công tác quản lý chất lượng giống, vật tư, thức ăn chăn nuôi được các địa phương quan tâm hơn; quản lý môi trường chăn nuôi có nhiều tiến bộ công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi được áp dụng trong sản xuất. Bước sang năm 2015, chăn nuôi tăng trường khá, 6 tháng đầu năm đạt khoảng 4,81% so với cùng kỳ năm 2014, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng. Đầu tư xã hội cho ngành chăn nuôi có chiều hướng tích cực, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đang phát triển mạnh đầu tư vào ngành chăn nuôi.

 

Công tác quản lý chất lượng giống, vật tư, thức ăn chăn nuôi được các địa phương quan tâm hơn; quản lý môi trường chăn nuôi có nhiều tiến bộ công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi được áp dụng trong sản xuất. Bước sang năm 2015, chăn nuôi tăng trường khá, 6 tháng đầu năm đạt khoảng 4,81% so với cùng kỳ năm 2014, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng. Đầu tư xã hội cho ngành chăn nuôi có chiều hướng tích cực, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đang phát triển mạnh đầu tư vào ngành chăn nuôi.

 

Tiêu thụ sản phẩm


Năm 2014, tổng sản lượng thịt xẻ quy đổi được sản xuất trong nước là 3.121.409 tấn, tổng lượng thịt xẻ quy đổi nhập khẩu là 1259.574 tấn/3.280.983 tấn, chiếm 4,9%. Tiêu dùng thịt xẻ bình quân đầu người là 35kg/người/năm.

Tình hình thị trường sản phẩm cahwn nuôi biến động không nghiều trong 6 tháng đầu năm 2015. Giá một số nguyen liệu TĂCN trong quý I, II năm 2015 đã giảm từ 2-4 % so với cùng kỳ do chính sách không thu thuế VAT nguyên liệu TĂCN được áp dụng.

 

Xuất, nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi

 

Tình hình nhập khẩu : Tính chung trong 5 tháng đầu năm 105, cả nước nhập khẩu 1.220 con lợn giống, kim ngạch hơn 1,6 triệu USD (giảm 23,8% về lượng nhưng tăng 18,9% về kim ngạch so cới cùng kỳ năm 2014); tổng số gia cầm giống nhập khẩu là 821.519 con, kim ngạch nhập khẩu hơn 2,91 triệu USD (tăng 1,1% về lượng và giảm 9,3 về kim nghạc); đã có 209.006 con trâu, bò sống được nhập vào Việt Nam từ Úc và Thái Lan và 29.600 con bò giống, kim ngạch nhập khẩu gần 195,5 triệu USD (tăng 62,2% về lượng và 98,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2014). Cả nước nhập khẩu 2.032 tấn thịt lợn, kim ngạch đạt gần 4 triệu USD (tăng 46,6% về lượng và tăng 59,5% về kim ngạch) và 56.917 tấn thịt gà, kim ngạch đạt gần 52,7 triệu USD (lần lượt tăng 54,4% về lượng và tăng 31,3% về kim ngạch).

 


Tình hình xuất khẩu: Đối với sản phẩm xuất khẩu, trong 5 tháng đầu năm 2015 cả nước xuất khẩu 17.731,45 tấn lợn sữa đông lạnh, kim ngạch đạt 48,78 triệu USD; 13.801.429 quả trứng muối, kim ngạch đạt 2.235,54 ngàn USD; 13.964,86 tấn mật ong, kim ngạch đạt 43.563,16 ngàn USD và 3.982,15 tấn sữa tươi, kim ngạch đạt trên 6,15 USD.

 

 

Thị trường nguyên liệu và sản phẩm thức ăn chăn nuôi

 

- Sản suất thức ăn chăn nuôi: Trong 5 tháng đầu năm 2015, sản lượng TĂCN coogn nghiệp ước đạt gần 6,03 triệu tấn; tăng khoảng 5% so với cùng kỳ năm 2014, bình quân gía hầu hết nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chính trong 5 tháng đầu năm 2015 đều giảm như: Ngô hạt 5.540 đ/kg (giảm 15,45%), khô dầu đậu tương 10.200 đ/kg (giảm 29,7%), cám gạo 6.276 đ/kg (giảm 7,4%), sắn lát 4.620 đ/kg (giảm 13,7%), lysine 35.000 đ/kg (giảm 2,7%); chỉ có giá Methionine 147.000 đ/kg và bột cá 31.000 đ/kg là tăng lần lượt là 79,95% và 21% so với cùng kỳ. Do giá nguyên liệu đầu vào giảm nên bình quân giá thức ăn hỗ hợp hoàn chỉnh cho gà Broiler 10,742 đ/kg, giảm 7,4%; giá thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt giai đoạn từ 60kg đến xuất chuồng 9.56 đ/kg, giảm 8,9%.

 


- Xuất nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi: Tình hình nhập khẩu nguyên liệu TĂCN trong 5 tháng đầu năm 2015 có xu hướng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2014, theo số liệu báo cáo của các đơn vị kiểm tra: tổng lượng các loại nguyên liệu nhập khẩu là trên 5,98 triêu jtaans so với 5,1 triệu tấn (tăng 17,29%); giá trị nhập khẩu 2,31 tỷ USD so với 2,02 tỷ USD (tăng 14,52%). Trong đó, nhóm thức ăn giàu đạm chiếm trên 2,44 triệu tấn, trị giá đạt trên 1,3 triệu USD (lần lượt tăng 19,21% về lượng và 26,66% kim ngạch so với cùng kỳ năm 2014); nhóm thức ăn giàu năng lượng chiếm trên 3,36 triêụ tấn, trị giá 772,1 triệu USD (lần lượt tăng 16,56% về lượng và 6,59% về kim ngạch so với ùng kỳ năm 2014); thức ăn bổ sung và các loại khác chiếm 177,65 ngàn tấn, kim ngạch nhập khẩu trên 299,12 triệu USD (tăng 7,45% về lượng nhưng giảm 11,63% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2014).


Thể chế ngành chăn nuôi được tăng cường đáng kể, nhiều chính sách mới trong chăn nuôi được ban hành, như: Đề án tái cơ cấu ngành, Đề án tăng cường năng lực quản lý giống, Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào phát triển chăn nuôi tập chung, Chính sách chăn nuôi nông hộ…

 

Tuy nhiên chăn nuôi nước ta vẫn còn chưa bền vững; giá trị gia tăng thấp; công tác quản lý còn nhiều bất cập; việc áp dụng khoa học công nghệ trong chăn nuôi còn chậm. Lực lượng cán bộ làm công tác chăn nuôi còn thiếu và yếu. Trong chăn nuôi còn tiềm ẩn những yếu tố về phát sinh dịch bênh và môi trường.

 

Công tác chuẩn bị và tiếp cận Hội nhập TPP chưa rõ, chậm, lúng túng và thiếu hành động cụ thể cho từng lĩnh cực. Công tác tuyên truyền còn chậm đổi mới, xúc tiến thương mại và thị trường chưa quan tâm đúng mức./.

 

Duy Hiếu biên soạn
nguồn Cục Chăn nuôi

Để lại comment của bạn

Họ tên:
Email:
Bình luận:
Quảng cáo
  • qc3
  • ildex quang cao
  • Huali
Video
Thống kê truy cập