[Hội Chăn nuôi Việt Nam - AHAV] – Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do với các nước trong khu vực và thế giới. Hội nhập ngày càng ảnh hưởng sâu, rộng đến ngành chăn nuôi Việt Nam. Bàn về chuyện ngành chăn nuôi hội nhập kinh tế: hiện trạng, thách thức, cơ hội và giải pháp, Ban biên tập website của Hội Chăn nuôi Việt Nam giới thiệu tới Quý Anh/Chị/Em hội viên và độc giả bài viết chuyên sâu, tâm huyết của TS Đoàn Xuân Trúc – Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam.
I. Việt Nam tích cực tham gia ký kết các Hiệp định FTA, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế – xã hội
Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Trên cơ sở các chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã chủ động và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN – năm 1995), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu (ASEM – năm 1998), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC – năm 1998) và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO – năm 2007), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và khu vực (trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực), và đang đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA); và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Với việc ký kết và thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) qua nhiều năm đàm phán, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành những mục tiêu quan trọng nhất trong Chiến lược đàm phán hiệp định thương mại tự do giai đoạn 2010 – 2020. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị tác động nặng nề bởi chiến tranh thương mại và đại dịch Covid-19, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần đưa Việt Nam vào nhóm nhỏ các nền kinh tế thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương.
Năm 2020, xuất khẩu đạt 281 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó có phần đóng góp quan trọng của thương mại với các thị trường hiệp định thương mại tự do (FTA) mới ký kết; 15 FTA được thực thi cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi khi tiếp cận thị trường ở trên 50 quốc gia, bao gồm hầu hết các đối tác thương mại lớn nhất, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam đã hoàn thành ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và khu vực (Ảnh minh họa)
Các hiệp định này không chỉ mở ra các cơ hội thương mại tiềm tàng với các nền kinh tế phát triển mà còn góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, hoàn thiện môi trường thương mại và đầu tư của nước ta. Đó chính là giá trị quan trọng nhất mà các hiệp định này đóng góp vào thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược phát triển lâu dài của Việt Nam.
Điều này đã khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như ghi dấu mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt thời gian qua. Đây sẽ là bệ phóng giúp doanh nghiệp trong nước vươn ra “biển lớn” và là động lực để kinh tế Việt Nam phục hồi sau đại dịch. (Tap chí CSVN, 01/2021)
CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA) VIỆT NAM
ĐÃ THAM GIA
|
STT
|
Tên viết tắt
|
Tên đầy đủ
|
Năm có hiệu lực
|
11
|
AFTA
|
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
|
1993
|
22
|
ACFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc
|
2003
|
33
|
AKFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Hàn Quốc
|
2007
|
44
|
AJCEP
|
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản
|
2008
|
55
|
VJEPA
|
Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam-Nhật Bản
|
2009
|
66
|
AIFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Ấn Độ
|
2010
|
77
|
AANZFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN -Australia-New Zealand
|
2010
|
88
|
VCFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Chi Lê
|
2014
|
99
|
VKFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Hàn Quốc
|
2015
|
110
|
VN-EAEU FTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu
|
2016
|
111
|
CPTPP
|
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
|
2018
|
112
|
AHKFTA
|
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN và Hồng Kông (Trung Quốc)
|
2019
|
113
|
EVFTA
|
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu
|
2020
|
114
|
UKVFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Vương quốc Anh
|
2020
|
115
|
RCEP
|
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
|
Ký kết ngày 15/11/2020, sắp có hiệu lực
|
116
|
VN-EFTA FTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Khối EFTA⃰⃰
|
Đang đàm phán
|
117
|
VIFTA
|
Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Isarel
|
* Gồm 4 nước ngoài khối EU: Iceland, Na Uy, Thuy Sỹ, Liechtenxtein
I.1 Những chuyển biến khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Chiến lược đàm phán FTA của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định những thành tựu và tồn tại của các FTA đã ký kết trong giai đoạn trước đó và đặt mục tiêu ký kết các FTA với các nền kinh tế phát triển nhằm hỗ trợ mục tiêu công nghiệp hóa của Việt Nam và giảm sự lệ thuộc thương mại vào một khu vực. Chiến lược đàm phán FTA đã tạo cơ sở định hướng để Việt Nam xúc tiến các FTA với sự có mặt của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Ca-na-đa… Các hiệp định CPTPP và EVFTA đã thực sự thiết lập nên những tiêu chuẩn và luật lệ mới cho thương mại quốc tế được kỳ vọng sẽ đem lại động lực tăng trưởng cho thương mại giữa các quốc gia thành viên. Đối với Việt Nam, hơn 10 năm sau công cuộc cải cách thể chế thương mại theo WTO, chúng ta lại tiến hành một cuộc cải cách lớn. Không chỉ Việt Nam mà hầu như tất cả các quốc gia ký kết, ở một mức độ nào đó, đều đã phải thực hiện các thủ tục sửa đổi, ban hành các văn bản pháp lý để thực thi hiệp định. Điều này khẳng định tính tiên phong của các hiệp định thế hệ mới. Từ quá trình vừa cải cách, vừa học hỏi để đàm phán tuân thủ các quy tắc thông thường của thương mại quốc tế, chúng ta đã bước vào sân chơi hàng đầu thế giới, tham gia thiết lập những chuẩn mực tiên tiến cho thương mại. Xét từ góc độ này, CPTPP và EVFTA không đơn thuần có ý nghĩa thương mại.
Có thể nói, các FTA đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVID-19, các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, UKVFTA đã trở thành “liều thuốc” tiếp sức cho kinh tế Việt Nam phục hồi sau đại dịch.
Đơn cử như với thị trường EU, nếu như trong 3 quý đầu năm 2020, xuất khẩu sang thị trường này chỉ đạt 29,44 tỷ USD giảm 4,7% so với cùng kỳ năm 2019. Tuy nhiên, sau 3 tháng thực thi Hiệp định EVFTA, xuất khẩu sang thị trường EU đạt khoảng 11,08 tỷ USD như vậy là tăng khoảng 5% so với cùng kỳ năm 2019. Tính đến hết năm 2020, xuất khẩu sang thị trường EU đạt 40,05 tỷ USD.
Theo Bộ Công thương, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực tại thị trường EU sau khi Hiệp định EVFTA được thực thi. Điển hình, xuất khẩu thủy sản có số lượng đơn hàng tăng khoảng 10% so với trước khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, hay giá gạo Việt xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng phổ biến từ 80-200 USD/tấn, tùy loại so với thời điểm trước khi EVFTA có hiệu lực. Ngoài ra, nhiều mặt hàng khác như điện thoại và linh kiện, máy móc, thiết bị phụ tùng, dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ, cà phê… cũng đang được nhận định kỳ vọng lớn trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thời gian tới.
Cùng với việc trao đổi thương mại của Việt Nam với các quốc gia EU đạt nhiều tín hiệu khả quan ngay trong tháng khởi đầu năm 2021, tình hình xuất nhập khẩu với Vương quốc Anh tiếp tục cho thấy những hiệu ứng tích cực mà Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đem lại trong giai đoạn chuyển tiếp hậu Brexit.
Với những cam kết cắt giảm thuế suất lên đến 99% theo lộ trình cùng tính chất tiếp nối, Hiệp định UKVFTA cũng hứa hẹn duy trì đà tăng trưởng thương mại bứt phá giữa Việt Nam và Anh Quốc trong những năm tiếp theo.Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm nay, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và quốc Anh đạt 1,024 tỷ USD, tăng 20,05% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy Hiệp định UKVFTA đã tạo ra động lực quan trọng trong việc phục hồi trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Vương quốc Anh trong năm nay.
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực ngày 14/1/2019 (Ảnh minh họa)
Trong khi đó, với Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực tại Việt Nam ngày 14/1/2019, chỉ trong vòng 2 năm (năm 2019 và 2020), kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và 10 nước CPTPP đã đạt 77,4 và 78,2 tỷ USD, tăng 3,9% và 5% so với năm 2018. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 10 nước CPTPP năm 2019 đạt 39,5 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018 và năm 2020 đạt 38,7 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2018 khi chưa có Hiệp định. Kim ngạch nhập khẩu từ 10 nước CPTPP năm 2019 đạt 38,1 tỷ USD, tăng 1,2% so với năm 2018 và 40,3 tỷ USD năm 2020, tăng 7,1% so với năm 2018 .
Trong đó, nếu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu sang 2 thị trường mới chưa có FTA là Canada và Mexico thì trong năm 2020 xuất khẩu sang Canada tăng 12,1%, Mexico tăng 11,8% so với năm 2019. Đối với 11 FTA truyền thống, tác động rõ rệt nhất đối với thương mại hàng hóa chính là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA đã tăng rõ rệt, đạt 123,11 tỷ USD. Trong khi đó, năm 2004, Việt Nam mới có 2 đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD. Còn xét về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân sang các thị trường đối tác FTA kể từ khi có Hiệp định FTA thì Ấn Độ đạt bình quân 35,7%/năm, Hàn Quốc đạt 29,2%/năm, Chile 28,9% và Trung Quốc 20,9%.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đánh giá, với sự kiên định trong chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, từ quốc gia đi sau trong tiến trình hội nhập, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đi đầu, là nước đang phát triển đầu tiên trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương có FTA với EU; cùng với Singapore là nhóm nước đầu tiên trong ASEAN phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
“Đặc biệt, cùng với CPTPP, RCEP đã khẳng định tiếng nói của Việt Nam vào việc định hình cho các cơ chế hợp tác mới, cũng như luật chơi của khu vực, tăng cường vị thế của đất nước” – Nguyên Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Theo nhận định của Trung tâm WTO – VCCI: Hiêp định CPTPP và EVFTA là Hiệp định thế hệ mới, hiệp định toàn diện, chất lương cao và đảm bảo cân bằng lợi ích cho các bên, trong đó đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên, củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện và bền vững. Đây là các hiệp định có mức cam kết cao nhất và mở rông nhất so với các FTA đã được ký kết.
Với “siêu” Hiệp định RCEP, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, việc thực thi RCEP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 0,4% đến năm 2030 nếu xét lợi ích trực tiếp, có thể lên đến 1% lợi ích gián tiếp từ cải cách thể chế.
I. 2 Các hiệp định thương mại thế hệ mới đã thiết lập các tiêu chuẩn mới cho tự do hóa thương mại
Theo Tạp chí CSVN, 4/2021, có 4 tiêu chuẩn mới thết lâp, đó là:
(1) Các FTA thế hệ mới hướng tới mục tiêu tự do hóa hoàn toàn thương mại. Trên thực tế, CPTPP và EVFTA đã đạt mức độ tự do hóa gần như 100% hàng hóa. Hầu hết thuế quan được loại bỏ sau 5 – 7 năm từ khi Hiệp định có hiệu lực. Một tỷ lệ nhỏ các mặt hàng nông nghiệp được coi là nhạy cảm đang bị quản lý bằng hạn ngạch hoặc thuế nhập khẩu cao được chuyển sang quản lý bằng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch 0%.
Các mặt hàng truyền thống chúng ta có thế mạnh, như dệt may, da giày, thủy sản… tiếp tục có cơ hội tăng trưởng xuất khẩu nhờ cắt giảm thuế quan và các cơ chế thuận lợi hóa thương mại. Đặc biệt, việc mở cánh cửa vào thị trường EU cho các sản phẩm nông sản có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam.
Có thể kim ngạch xuất khẩu đạt được từ các thỏa thuận mới về nông sản, như gạo, tỏi, tinh bột sắn, nấm, mật ong… không lớn nhưng nó được tạo ra hoàn toàn từ nguồn lực trong nước và có ý nghĩa xã hội, giúp cải thiện thu nhập cho một bộ phận nông dân ở những vùng khó khăn.
Trong bối cảnh các nước phát triển đang áp dụng rất nhiều biện pháp bảo hộ đối với nông nghiệp, mức thuế trong hạn ngạch 0% bảo đảm cho chúng ta một thị phần nhất định trên thị trường nông sản nhập khẩu của các nước thành viên FTA. Bên cạnh đó, việc loại bỏ thuế suất với các mặt hàng nông sản chế biến sẽ khuyến khích công nghiệp thực phẩm đầu tư sản xuất các mặt hàng cho thị trường này, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nông sản theo hướng gia tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến.
(2) CPTPP và EVFTA chứa đựng rất nhiều quy định điều chỉnh chính sách thương mại trong nước của các quốc gia thành viên. Mục đích nhằm tạo dựng môi trường thương mại minh bạch, cạnh tranh, bình đẳng; bảo đảm giá trị của các thỏa thuận tự do thương mại không bị suy giảm bởi các biện pháp bảo hộ được thiết lập nên tại thị trường nội địa.
Minh bạch là yêu cầu xuyên suốt mọi lĩnh vực của các hiệp định CPTPP và EVFTA. Hầu hết các chương hiệp định đều có điều khoản về minh bạch: công bố thông tin, cập nhật thông tin trên các trang mạng chính thống, quyền tiếp cận thông tin của doanh nghiệp, của xã hội… Qua đó, các doanh nghiệp và xã hội nắm được các chủ trương, chính sách, có cơ hội tham gia bày tỏ quan điểm và giám sát việc thực thi.
Yếu tố cạnh tranh là một phần cốt lõi của kinh tế thị trường, giúp thị trường vận hành hiệu quả. Nhằm xác lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, CPTPP và EVFTA có các quy định nhằm xác lập sự bình đẳng giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế về địa vị pháp lý cũng như quyền được tham gia vào các hoạt động thương mại.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN – Most favoured nation) là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO và nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT - National Treatment) được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình. Nguyên tắc Đối xử quốc gia bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước.
(3) Các FTA thế hệ mới luôn coi trọng mục tiêu phát triển bền vững. Điều này thể hiện ở các quy định không thuộc phạm trù thương mại (môi trường, lao động…) nhưng sẽ bị ràng buộc thực hiện bởi các biện pháp thương mại. CPTPP và EVFTA không đặt ra những yêu cầu mới so với các tiêu chuẩn quốc tế chung về lao động và môi trường.
Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tham gia các điều ước quốc tế cụ thể đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi trong lĩnh vực này. Giá trị gia tăng của các FTA thế hệ mới đem lại cho các quy định này là nâng cao tính thực thi khi chuyển hóa chúng thành những nghĩa vụ bắt buộc được bảo đảm bằng các công cụ về kinh tế, cơ chế giải quyết tranh chấp và các chế tài thương mại.
(4) CPTPP và EVFTA đề cao vai trò doanh nghiệp và tầm quan trọng của việc thiết lập các cơ chế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các lợi ích của tự do thương mại. Đây là cách tiếp cận tiến bộ và thực tiễn, bởi doanh nghiệp chính là người đưa các cam kết vào cuộc sống. Mức độ doanh nghiệp khai thác các cam kết là thước đo giá trị của hiệp định.
Nhằm cung cấp các thông tin về hiệp định hoặc các thông tin hữu ích cho doanh nghiệp để thực thi, các bên ký kết có nghĩa vụ duy trì cổng thông tin điện tử công khai hoặc trang tin điện tử. Trong CPTPP, Ủy ban về các vấn đề doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) bao gồm đại diện chính phủ của các bên sẽ thường xuyên trao đổi về các biện pháp hỗ trợ nâng cao năng lực, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nước ngoài không phải chịu áp đặt các quy định về thực thi (tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu, sử dụng nguyên liệu trong nước, chuyển giao công nghệ bắt buộc…) và có quyền sử dụng các cơ chế trọng tài quốc tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Đặc biệt, các hiệp định này đều có những quy định chi tiết về đơn giản hóa thủ tục hải quan và chứng nhận xuất xứ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu được phép xuất trình chứng từ điện tử, làm thủ tục trước khi hàng đến cảng, áp dụng cơ chế một cửa, thực hiện quản lý rủi ro và hậu kiểm, cho phép áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ… Các quy định mang tính thuận lợi hóa thương mại này đồng nghĩa với nghĩa vụ chứng minh, giải trình về hàng hóa của doanh nghiệp được chuyển thành trách nhiệm giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý.
Các doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí giao dịch, thời gian làm thủ tục. Đồng thời, tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp nghiêm túc tuân thủ các quy định quản lý, thực thi các quy trình quản lý tài chính chuẩn mực. Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý của các cơ quan hành chính nặng nề hơn. Đòi hỏi các cơ quan này phải hiện đại hóa quy trình, nâng cao năng lực và đổi mới phương thức quản lý.
I. 3 Ý nghĩa của các FTA thế hệ mới đối với phát triển bền vững
Các hiệp định thế hệ mới ngay khi đi vào thực thi đã đem lại những tín hiệu tích cực về thương mại. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường trước đây chúng ta chưa có FTA (Ca-na-đa, Mê-hi-cô) tăng ở mức từ 20 đến 30% trong năm đầu tiên thực thi. Năm 2020, bất chấp tác động bất lợi của đại dịch Covid-19, xuất khẩu sang các thị trường này vẫn tăng từ 12 đến 15%. Đối với EVFTA, 5 tháng đầu tiên thực thi (từ tháng 8 đến tháng 12-2020) đã có 62.500 bộ Chứng nhận xuất xứ EUR.1 được cấp; cho phép 2,35 tỷ USD hàng hóa xuất khẩu sang thị trường EU (xấp xỉ 15% kim ngạch xuất khẩu cùng kỳ) được hưởng ưu đãi. Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu sang EU đã tăng 1,6% so với cùng kỳ 2019, thời điểm chưa xuất hiện dịch bệnh.
Những kết quả khả quan bất chấp tình trạng suy thoái của kinh tế toàn cầu cho thấy sức hấp dẫn của các thị trường mới khai thông và tiềm năng, sự nhạy bén của các doanh nghiệp. Với việc thực thi EVFTA chắc chắn EU sẽ nhanh chóng vươn lên thứ hạng cao hơn trong danh sách các bạn hàng của Việt Nam. Nông sản Việt Nam có cơ hội to lớn thâm nhập vào thị trường tiềm năng, được giá này. Đồng thời, người tiêu dùng Việt Nam sẽ tiếp cận được các sản phẩm tiêu dùng châu Âu chất lượng cao với giá rẻ hơn.
Ngoài ra, mạng lưới các FTA đã giúp Việt Nam giảm thiểu tác động của sự suy giảm hệ thống thương mại đa phương. Chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng vai trò của hệ thống thương mại đa phương. Các nước lớn đã tùy ý áp đặt các biện pháp bảo hộ bất chấp các quy định, nguyên tắc của WTO và vô hiệu hóa các luật lệ, cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Các nền kinh tế nhỏ và có mức độ mở cao như Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương khi những nền tảng pháp lý cho thương mại quốc tế vốn tồn tại bao năm qua bị suy giảm. Trong bối cảnh đó, các FTA đã phát huy vai trò diễn đàn đối thoại cũng như khuôn khổ pháp lý để giải quyết các vấn đề thương mại giữa Việt Nam và các đối tác hàng đầu của mình, giúp chúng ta giảm thiểu các tranh chấp ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại.
Tuy nhiên, lợi ích lâu dài và có ý nghĩa nhất đối với phát triển là những quy tắc mang tính cải cách đối với môi trường thương mại trong các hiệp định thế hệ mới. Kể từ thời kỳ gia nhập WTO, chúng ta mới lại có một đợt rà soát tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại như vừa qua.
Liên quan đến CPTPP, Bộ Tư pháp đã chủ trì cùng các bộ, ngành rà soát 256 văn bản luật và dưới luật, kiến nghị sửa đổi 12 văn bản (trong đó có 8 luật) ban hành mới 5 văn bản. Đối với EVFTA, trên cơ sở rà soát 219 văn bản, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi 4 văn bản (2 luật) và ban hành mới 4 văn bản. Đó là chưa kể tới hàng chục điều khoản trong cả hai hiệp định sẽ được áp dụng trực tiếp do đã được quy định đủ rõ ràng và không xung đột với pháp luật hiện hành. Số lượng các văn bản rà soát và cần sửa đổi, ban hành mới cho thấy ý nghĩa sâu rộng và mức độ ảnh hưởng của các hiệp định này tới nền kinh tế.
Cũng cần lưu ý rằng, việc sửa đổi pháp luật không chỉ đặt ra với Việt Nam. Các nước thành viên ký kết các FTA kể trên, bao gồm cả các nền kinh tế hàng đầu, như Nhật Bản, Ca-na-đa, thành viên EU,… đều phải thực hiện công việc xây dựng pháp luật để thực thi hiệp định ở các mức độ khác nhau để cập nhật những yếu tố tiên phong của các hiệp định này vào nội luật.
Khuôn khổ pháp luật thương mại minh bạch, cạnh tranh, thủ tục thuận lợi… sẽ tạo hiệu ứng sâu rộng, lâu dài để nền kinh tế vận hành hiệu quả, bền vững. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 – 2020 của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ba rào cản khiến nhà đầu tư quan ngại nhất khi tiếp cận thị trường các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam là thủ tục phê duyệt đầu tư, quy định về hàm lượng nội địa và quy định về lao động người nước ngoài.
Yếu tố nhân công rẻ chỉ xếp thứ 11. Bởi vậy, việc thực thi nghiêm túc những cam kết đầu tư trong các FTA thế hệ mới kể trên cùng với lợi ích tiềm tàng từ mạng lưới FTA bao phủ Việt Nam đang sở hữu sẽ cho chúng ta những lợi thế to lớn trong thu hút luồng đầu tư đang có xu hướng dịch chuyển xuống khu vực Nam Á. Những giá trị tiên phong về tự do thương mại và cải cách tạo nên sức hấp dẫn của các FTA này với thế giới. Một số nền kinh tế hàng đầu đã bày tỏ ý định sẽ xem xét khả năng tham gia CPTPP (Báo cáo của Trung tâm WTO – VCCI).
(Còn nữa)