Giải pháp phát triển chăn nuôi hữu cơ tại Hà Nội

 
Thứ Sáu, 25/11/2016
Báo giá
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Quảng cáo
    1156
Giải pháp phát triển chăn nuôi hữu cơ tại Hà Nội
Ngày đăng bài - 11/21/2018 12:00:00 AM
Giải pháp phát triển chăn nuôi hữu cơ tại Hà Nội

Đó là tên Hội thảo khoa học do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội và Hội Chăn nuôi Hà Nội phối hợp tổ chức ngày 15/11/2018 tại Hà Nội. Tham dự hội thảo là các nhà khoa học, cơ quan chuyên môn, Hiệp hội, Hội và các doanh nghiệp.

 

PGS TS Bùi Thị An, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Hà Nội

 

Theo PGS TS Bùi Thị An, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Hà Nội, hội thảo là dịp để các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp xác định được thực trạng, xác định nguyên nhân, tìm ra giải pháp đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hữu cơ thời gian tới; cùng với đó, xác định được những kiến nghị báo cáo Thành ủy và UBND Thành phố xem xét ban hành các chính sách khuyến khích chăn nuôi hữu cơ tại ngoại thành, tạo ra ngành nông nghiệp và chăn nuôi hữu cơ chất lượng và hiệu quả cao tại Hà Nội.

 

Toàn cảnh hội thảo

 

Chăn nuôi hữu cơ ở thủ đô mới phát triển

 

Bùi Tuấn Khải, Chủ tịch Hội chăn nuôi Hà Nội cho biết về chăn nuôi hữu cơ ở Việt Nam, tới nay Việt Nam có trên 70 mô hình hợp tác xã, trang trại, nhóm nông dân chăn nuôi hữu cơ, bò sữa, tôm, cá, gia cầm, lợn rừng… với quy mô nhỏ, hình thức chủ yếu là trồng trọt, kết hợp với chăn nuôi hữu cơ. Điển hình như công ty TH Milk năm 2016 nuôi 1000 con bò sữa, hiện nay là 3.000 bò sữa, Công ty Vinamilk có 800 bò sữa chăn nuôi hữu cơ để sản xuất sữa tươi hữu cơ. Công ty Viên Phú (Cà Mau) dành 250 ha để sản xuất lúa kết hợp nuôi cá hữu cơ. Nhiều trang trại nuôi tôm sinh trong rừng ngập mặn ven biển Cà Mau, An Giang… Những tỉnh như Lâm Đồng, Mộc Châu (Sơn La), Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Tây Ninh, Đồng Nai đã có kế hoạch và quy hoạch đất để phát triển nông nghiệp chăn nuôi hữu cơ.

 

TS. Bùi Tuấn Khải, Chủ tịch Hội chăn nuôi Hà Nội

 

Tại Hà Nội, với dân số trên 10 triệu người, Hà Nội có nhu cầu lớn về thực phẩm từ chăn nuôi. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu, ngoại thành Hà Nội trong các năm gần đây đã đẩy mạnh phát triển chăn nuôi và chăn nuôi hữu cơ. Tại Hà Nội, huyện Sóc Sơn, Đông Anh, Thạch Thất, Ba Vì đã có 25 HTX, trang trại, nhóm nông dân sản xuất rau, chè, cây ăn quả hữu cơ. Nhiều sản phẩm này đã có trên thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận mua với giá cao và ngày càng yêu cầu cung ứng với số lượng lớn.

 

Chăn nuôi hữu cơ cũng mới phát triển chủ yếu theo mô hình trồng trọt kết hợp với chăn nuôi hữu cơ. Điển hình như HTX Thanh Xuân (huyện Sóc Sơn) đã tổ chức sản xuất nông nghiệp hữu cơ từ năm 2008. Tới năm 2017 đã dành 40 ha đất với 15 tổ hợp tác sản xuất rau, 9 tổ hợp chăn nuôi bò, gia cầm, cây ăn quả theo hướng hữu cơ.

 

Hay như trang trại Hoa Viên thuộc Công ty TNHH Khai thác tiềm năng sinh thái Hòa Lạc (xã Yên Bình, Thạch Thất). Ngoài sản xuất rau thường và rau rừng, cây thanh long ruột đỏ, xoài, bưởi, ổi… theo hướng hữu cơ, trang trại còn nuôi 1 nghìn con lợn rừng sinh sản, cung ứng trên 10 nghìn lợn giống, 2 nghìn con lợn thịt hữu cơ mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm cho lao động với mức lương 5-6 triệu đồng/tháng.

 

Nhiều tiềm năng phát triển

 

Cũng theo TS Bùi Tuấn Khải, mặc dù có nhiều thách thức và rủi ro nhưng phát triển chăn nuôi hữu cơ cũng có nhiều thuận lợi để phát triển do nhu cầu sử dụng thực phẩm ngon, sạch, chất lượng cao được xác định đạt tiêu chuẩn qui định của người tiêu dùng Thủ đô ngày càng cao và được chấp nhận bán giá cao. Bên cạnh đó, do là nước nhiệt đới, thời tiết thuận lợi cho phát triển nông nghiệp quanh năm, nhân công sản xuất thủ công nhiều và rẻ. Vì vậy, nếu được đầu tư tốt, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi hữu cơ cho nông dân thì sản phẩm hữu cơ có thể sản xuất với giá thành hợp lý, người sản xuất có thể thu nhập cao so với các phương thức khác.

 

Chính phủ, Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN đã có định hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ, ban hành Nghị định và tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ, bước đầu có chính sách ưu đãi về vốn và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

 

Theo đó, việc phát triển nông nghiệp và chăn nuôi hữu cơ có điều kiện để tăng trưởng nhanh trong thời gian tới, tạo ra sản phẩm và thu nhập mới cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

 

Lắm thách thức

 

Theo TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cở Việt Nam cho rằng: thách thức lớn nhất của nông nghiệp hữu cơ chính là nhận thức của cộng đồng về nông nghiệp hữu cơ, mà chủ chốt là nhận thức chuyên sâu của cán bộ Nông nghiệp. Ít cán bộ nông nghiệp được đào tạo chuyên môn về lĩnh vực này. Người tiêu dùng trong nước chưa biết nhiều và Nông nghiệp hữu cơ và sản phẩm hữu cơ, do vậy chưa tồn tại, hình thành thị trường tiêu thụ tại chỗ và chưa khuyến khích các nhà sản xuất chuyển đổi từ nông nghiệp thường sang nông nghiệp hữu cơ.

 

Hạ tầng phụ trợ cho (chứng nhận, xúc tiến thương mại, cơ chế đầu tư, dịch vụ, cung cấp vật tư cho Nông nghiệp hữu cơ như phân bón, thức ăn gia súc, thuốc thú y, thuốc trừ sâu….) cho nông nghiệp hữu cơ hầu như chưa có.

 

Về tổ chức chứng nhận sản phẩm hữu cơ: Phí chứng nhận sản phẩm hữu cơ của tổ chức quốc tế, trong khi TCVN mới ban hành  các tổ chức chứng nhận trong nước theo TCVN đang nhận được sự quan tâm.

 

Vì vậy các địa phương, doanh nghiệp khi phát triển nông nghiệp hữu cơ cần có phương án, đối sách và chiến lược phù hợp, cụ thể để xử lý các khó khăn trên.

 

TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

 

Để chăn nuôi hữu cơ thực sự phát triển

 

Theo Cục chăn nuôi, Chăn nuôi hữu cơ ở Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển. Vì thế, nhà nước cần có chính sách để phát triển, tổ chức sản xuất theo chuỗi và tập trung vào một số sản phẩm chủ lực để xuất khẩu tăng giá trị thặng dư như: sữa, thịt gà, trứng và mật ong.

 

Vì vậy, cần tăng cường xây dựng và quảng bá các thương hiệu sản phẩm chăn nuôi hữu cơ. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm – gắn thương hiệu sản phẩm quốc gia: xác định rõ đặc trưng, lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng sản phẩm để điều chỉnh, tập trung nguồn lực cho sản xuất, từng bước xây dựng các chuỗi  giá trị sản xuất, nâng cao giá trị gia tawngn của sản phẩm chăn nuôi hữu cơ.

 

Củng cố hệ thống tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gắn với thị truownfgn trong nước theo hướng hình thành các chuỗi liên kết từ sản xuất – chế biến – lưu thông – tiêu thụ sản phẩm hữu cơ thông qua hoạt động của các doanh nghiệp và Hiệp hội.

 

Còn theo Sở NN&PTNT Hà Nội, để phát triển chăn nuôi hữu cơ của thủ đô “cất cánh” cần khảo sát, lựa chọn áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiên tiến, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với hệ sinh thái, không sử dụng chất bảo hóa học tổng hợp, công nghệ biến đổi gen, phóng xạ hay công nghệ có hại khác, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái, đảm bảo các quy định về tiêu chuẩn quốc gia Việt Nam về nông nghiệp hữu cơ.

 

Cần thiết đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo tiêu chuẩn  Việt Nam và quốc tế.

 

Để phát triển chăn nuôi hữu cơ của thủ đô cần khảo sát, lựa chọn áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiên tiến, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với hệ sinh thái

 

Xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ với quy trình kỹ thuật tiên tiến, có kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt các tiêu chuẩn theo quy định, sản phẩm sản xuất ra được cấp giấy chứng nhận theo quy định quốc gia, quốc tế về nông nghiệp hữu cơ.

 

Đầu tư, nâng cấp Trung tâm Phân tích và chứng nhận chất lượng sản phẩm nông nghiệp Hà Nội đủ năng lực triển khai sản xuất, kiểm định, cấp giấy chứng nhận sản phẩm nông nghiệp, đạt tiêu chuẩn hữu cơ theo yêu cầu trong nước và quốc tế.

 

Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về sản xuất nông nghiệp hữu cơ, quản lý chặt chẽ vật tư đầu vào sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản sản phẩm. Xây dựng, trình duyệt cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố.

 

Còn TS Hà Phúc Mịch thì cho rằng, để sản xuất hữu cơ thực sự phát triển, người sản xuất cần định hướng rõ thị trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ trang trại (chợ địa phương, khu vực dân cư, siêu thị hay xuất khẩu…) mỗi một thị trường đều có các yêu cầu riêng về tiêu chuẩn hữu cơ, tiêu chuẩn và các quy định về an toàn thực phẩm theo luật.

 

Các tổ chức chứng nhận nâng cao trình độ, hiểu biết trong chứng nhận hữu cơ vững chữ “tâm” với nghề, đảm bảo chứng nhận đúng, đủ các nguyên tắc của tiêu chuẩn hữu cơ, minh bạch các hoạt động của tổ chức chứng nhận, khuyến khích người sản xuất đúng tiêu chuẩn hữu cơ đã lựa chọn và góp phần làm minh bạch thị trường. Không cho các đơn vị chưa đạt chuẩn mà vẫn được chứng nhận, điều này gây méo mó cho thị trường và mất niềm tin của người tiêu dùng vào sản phẩm hữu cơ có chứng nhận.

 

Nhà phân phối là đại diện nói lên nhu cầu của đại đa số người tiêu dùng, nhà phân phối là đơn vị tìm hiểu chất lượng sản phẩm trước tiên, chính vì vậy mọi nhà phân phối sản phẩm nên tìm hiểu rõ sản phẩm đang phân phối? Đơn vị nào chứng nhận, phẩm chất, chất lượng có ổn định hay không và giá cả cần phải đảm bảo đi liền với giá trị sản phẩm

 

Người tiêu dùng tìm hiểu rõ các thông tin khi mua sản phẩm hữu cơ, thông tin chứng nhận, truy xuất nguồn gốc, thường xuyên đóng vai là giám sát viên thị trường đối với sản phẩm gia đình đang sử dụng, điều này đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và thúc đẩy tính minh bạch của thị trường lên.

 

TÂM AN
Nguồn: Nhachannuoi.vn

Để lại comment của bạn

Họ tên:
Email:
Bình luận:
Quảng cáo
  • qc3
  • hoi thao
  • Huali
Video
Thống kê truy cập